Trong kiếp sống hiện tại của một người nào đó ta thấy có hai phần: một phần là những gì người đó đang thụ hưởng và một phần khác là những gì người đó đang làm.
Điều thứ nhất: Mệnh
Mệnh là cố định không thể thay đổi, là tiên thiên chú định. Nghĩa là khi một người xuất sinh thì đã được an bài một mệnh sẵn rồi.
Từ nghĩa hẹp mà giảng, người Trung Hoa nói về “mệnh” chính là “Bát tự” (giờ, ngày, tháng, năm sinh viết theo Thiên can và Địa chi, là một cách xem số mệnh của Trung Hoa xưa). Căn cứ vào “Bát tự” của một người, người ta có thể suy tính ra quỹ đạo vận hành, vinh nhục, phúc họa, bần phú, thọ yểu trong cuộc đời của một người.
Từ nghĩa rộng mà giảng, trong cuộc đời của con người là có những điều mà họ có làm gì cũng không thể thay đổi được. Đây là điều mà người ta thường gọi là số phận. Trong Phật gia gọi điều này là “A lại da thức”, nó là thứ đi theo vòng luân hồi của con người.
Điều thứ 2: Vận
Vận cũng được gọi là vận thế, là điều có thể thay đổi được.
Nếu ví “mệnh” là một chiếc xe xuất phát từ điểm bắt đầu chạy đến điểm cuối cùng của cuộc đời, thì xe của một người là loại gì, con đường như thế nào, đó được gọi là “mệnh”. Còn cụ thể, một người lái xe như thế nào để đi hết cuộc đời thì đó lại được gọi là “vận”.
Một số người nguyên ban đầu vốn là đã có xe tốt, đường tốt, nhưng lại để bản thân “nước chảy bèo trôi”, không lái tốt nên kết quả là cuộc đời kết thúc không có hậu. Trái lại, nhiều người vốn ban đầu chỉ có chiếc xe không tốt, đường đi lại đầy chông gai, gập ghềnh khúc khuỷu, nhưng bởi vì cả đời cần cù chịu khó, cẩn thận từng ly từng tý, lái xe rất chuyên tâm, kết quả cả đời bình an.
Chính bởi vì “mệnh” là cố định không thay đổi, nhưng “vận” lại nằm trong tay của mỗi người. Cho nên, chúng ta thường ngày vẫn nghe nói rằng “bói mệnh, đoán mệnh”, mà không có “đoán vận,” hay “đoán vận mệnh” là vậy.
Điều thứ 3: Phong thủy
Phong thủy không chỉ bao gồm môi trường tự nhiên mà chúng ta sống mà còn bao gồm cả môi trường xã hội. Nếu ví con người như một cái cây thì phong thủy chính là môi trường mà cái cây này sinh sống, bao gồm thổ nhưỡng, ánh sáng, lượng nước, các sinh vật khác ở xung quanh…
Môi trường bên ngoài này tất nhiên là rất quan trọng, nhưng gen di truyền và nỗ lực sinh trưởng của cái cây ấy cũng rất quan trọng. Cho nên có thể thấy, phong thủy chỉ là nhân tố bên ngoài, không phải nhân tố bên trong, không hoàn toàn quyết định con người. Tất nhiên nhân tố bên ngoài và nhân tố bên trong là có sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Điều thứ 4: Tích công đức
Tích đức chính là làm việc tốt. Cổ nhân thường giảng: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Bất luận là văn hóa Nho gia, hay là văn hóa Phật gia, Đạo gia thì đều đề xướng việc giúp người tích đức hành thiện, từ đó mà thay đổi vận mệnh.
Một ví dụ kinh điển nhất được ghi chép trong lịch sử chính là câu chuyện về Viên Liễu Phàm đời nhà Minh cải biến vận mệnh. Về sau, cuốn “Liễu Phàm tứ huấn” được hậu thế sử dụng để răn dạy con người nhận thức được sự chân thực của vận mệnh, tiêu chuẩn phân biệt rõ thiện ác, phương cách sửa sai hướng thiện, từ đó thấy được sự hiệu nghiệm của việc hành thiện tích đức trong việc thay đổi vận mệnh.
Điều thứ 5: Đọc sách thánh hiền
Đọc sách là một quá trình học tập suốt đời. Thông qua đọc sách, chúng ta có thể thu hoạch được tri thức, kết giao bạn bè, mở rộng tầm nhìn và còn có thể nâng cao bản thân.
Đọc sách cũng là phương thức nhanh chóng và tốt nhất để học hỏi văn hóa mấy ngàn năm từ cổ chí kim, thu nạp được lượng tri thức rộng lớn và trở thành người có trí tuệ.
Đọc sách giúp con người có thêm cái nhìn đúng đắn về thế giới quan, giá trị quan và nhân sinh quan. Nhờ đọc sách chúng ta có thể thông hiểu lời răn dạy của các bậc hiền triết thời xưa. Nhờ đọc sách, chúng ta có thể rút ra những bài học từ vô số các câu chuyện kim cổ, mở mang kiến thức, hấp thụ tinh hoa, hình thành những quan niệm đúng đắn cho bản thân.
Đọc sách giúp chúng ta mở rộng tầm nhìn, không còn bị giới hạn bởi một góc nhỏ bé của cuộc sống. Cùng với việc không ngừng đọc sách, sẽ hun đúc nên trong chúng ta một tấm lòng rộng mở, lý tưởng và tín niệm cao xa hơn.
Đọc sách còn giúp chúng ta kết giao bạn bè, mở rộng phạm vi giao tiếp. Thông qua đọc sách, chúng ta có thể tìm được bạn hữu tâm đầu ý hợp, mở lòng và thư thái.
Cho nên, từ xưa đến nay, đọc sách thánh hiền luôn là phương pháp quan trọng thay đổi vận mệnh của con người.
Điều thứ 6: Tên
Cổ nhân có câu: “Cho con nghìn vàng không bằng cho con một cái tên”. Từ nghĩa bề mặt cũng có thể thấy cổ nhân rất coi trọng việc đặt tên cho con cái. Một cái tên tốt, ý nghĩa sẽ có tác dụng khích lệ đối với cuộc đời mỗi người, thậm chí còn có tác dụng dẫn dắt, chỉ dẫn.
Người xưa đặc biệt là các gia đình danh gia vọng tộc hoặc dòng dõi Nho sinh đều rất coi trọng việc đặt tên cho con cái sao cho có ý nghĩa.
Điều thứ 7: Tướng
Tướng chính là chỉ tướng mạo, bao gồm tướng mặt và tướng tay.
Thời xưa có câu: “Tướng do tâm sinh, tâm do cảnh tạo, cảnh tùy tâm chuyển”. Ý nói rằng, thông qua tướng mạo bên ngoài của một người có thể phân tích ra được ý nghĩ trong nội tâm của người ấy. Mắt ác tâm tất xấu, mắt thiện tâm tất thiện. Tu đức tại tâm, cho nên điều cát hung là có thể thay đổi. Tâm khởi thiện niệm, các loại phúc báo sẽ lập tức đến.
Điều thứ 8. Kính Thần
Khổng Tử đã dạy các đệ tử của ông rằng, làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần
, đó là trí. Người xưa cũng nói: “Bậc quân tử có ba cái sợ, sợ mệnh trời, sợ đại nhân, sợ lời của Thánh nhân.”
Mệnh trời tức là quy luật vận hành của Đạo Trời, cần phải kính trọng Đạo Trời. Sợ đại nhân tức là người tu dưỡng đạo đức rất cao, cần phải kính sợ họ, kính sợ bậc bề trên, bậc tôn giả. Sợ lời của thánh nhân, đối với những lời nói của bậc thánh hiền phải có lòng kính sợ. Người nào làm được ba điều sợ này, thì con đường đời sẽ rất vững vàng và ổn định.
Điều thứ 9: Kết giao với quý nhân
Kết giao quý nhân tức là chọn người thiện mà kết giao. Người xưa có câu: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.” Nếu xung quanh một người đều là những người đạo đức cao thượng, thì đạo đức của người ấy cũng sẽ trở nên cao thượng. Trái lại, nếu một người luôn kết giao với những người có đạo đức thấp kém, thì dần dà phẩm hạnh đạo đức của người này cũng sẽ xấu đi.
Điều thứ 10: Dưỡng sinh
Dưỡng sinh là giữ thân tâm đều khỏe mạnh. Thời xưa, dưỡng sinh không chỉ đơn giản là sự vận động thân thể giống như ngày nay người ta thường nói. Dưỡng sinh là bao gồm cả dưỡng tâm và dưỡng thân.
Hơn nữa cần sống thuận theo quy luật của tự nhiên, mặt trời mọc thì dậy, mặt trời lặn thì nghỉ, phù hợp với quy luật vận hành bốn mùa của trời đất.
Điều thứ 11: Trạch nghiệp và trạch ngẫu
Trạch nghiệp tức là chọn nghề nghiệp công việc, trạch ngẫu là việc chọn bạn đời, kết hôn lập gia đình.
Cổ nhân có câu: “Nam nhân sợ chọn nhầm nghề, nữ nhân sợ lấy nhầm chồng.” Để có một sự nghiệp thành công cũng cần phải có một khoảng thời gian. Một người trước tiên cần phải lập chí theo nghề có hy vọng thành công nhất, sau đó kiên định không ngừng làm việc mới mong có thành công.
“Gia hòa vạn sự hưng”, vợ chồng hòa thuận, hai người đồng lòng thì quả thực là quý hơn vàng. Đằng sau một người đàn ông thành công, luôn có một người phụ nữ vĩ đại, đằng sau một người phụ nữ hạnh phúc đều có một người đàn ông đáng tin cậy.
Điều thứ 12: Xu cát tị hung
Trong cuộc đời, người ta cần phải luôn phân tích tình huống, xem xét thời thế, minh bạch lành dữ và họa phúc. Khi hoàn cảnh tốt lành thì cần thừa thế mà tiến lên. Trái lại, khi hoàn cảnh hung hiểm, thì cần chú ý cẩn thận.
Có thể thấy, trong 12 nhân tố trên đây, chỉ có “Mệnh” là nhân tố tiên thiên. 11 điều còn lại đều có thể thông qua sự cố gắng của bản thân mà thay đổi được vận mệnh của mỗi người. Bởi vậy mà cổ nhân mới nói, mệnh là tự mình lập, vận mệnh là nằm trong tay chính bản thân mỗi người.
Sống trên đời làm thế nào để có vận mệnh luôn tốt
Quan điểm của phương Đông về số phận dường như là một phạm trù đã được an bài, Mệnh và Vận đã được định đoạt sẵn, con người không thể nào vượt qua được số phận. Nhưng cũng cùng lúc đó các nhà học giả cho rằng Đức năng thắng số, khuyên con người hành thiện sẽ cải được mệnh vận, trả được nghiệp quả và có một cuộc đời an bình hơn.
Phân tích theo quan điểm của các nhà mệnh lý học: Mệnh là một phạm trù gần như cố định, vận thì vận hành tuần tự theo thời gian nhất định, mệnh và vận trên thực tế là một quy luật khách quan của sự vận động. Vậy: “Vận mệnh đã là một quy luật khách quan thì điều chỉnh bằng cách nào được?”. Nghiên cứu tứ trụ, am hiểu tứ trụ là một trong các phương pháp hữu hiệu để có thể điều chỉnh mệnh vận một con người thuận theo tự nhiên và đạt được hiệu quả tương đối rõ ràng. Bài viết này phân tích và điểm lược một số các quan điểm của các nhà mệnh lý học trong lịch sử (Lưu Bá Ôn, Thiệu Khang Tiết) cũng như đương đại (Từ Nhạc Ngô, Thiệu Vĩ Hoa, Lý Hàm Thường, Lý Cư Minh) nhằm cung cấp cho các bạn một cái nhìn rõ hơn phép cải vận đời người qua phân tích và ứng dụng quan điểm tứ trụ.
Theo quan điểm của đạo Phật thì luật nhân quả xuyên suốt quá khứ vị lai. Con người sinh ra đời là kết tinh của nghiệp quá khứ, tức là những gì đã tạo tác trong các kiếp trước.
Thuyết định mệnh theo ý nghĩa đó đã được các nhà nho tóm tắt trong câu: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” (có nghĩa là: muốn biết trong kiếp sống trước mình đã làm những gì thì hãy nhìn xem hiện tại trong kiếp này mình đang được hưởng những gì. Muốn biết trong kiếp sau mình sẽ được hưởng những gì thì hãy nhìn xem trong kiếp sống hiện tại mình đang làm được những gì). Theo thuyết này thì con người có nhiều kiếp sống: kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Mỗi kiếp sống gồm có hai phần: một phần là kết quả của kiếp trước và một phần là nguyên nhân của kiếp sau.
Trong kiếp sống hiện tại của một người nào đó ta thấy có hai phần: một phần là những gì người đó đang thụ hưởng và một phần khác là những gì người đó đang làm. Phần người đó đang được thụ hưởng là phần được sinh ra trong một gia đình giàu có sang trọng, lại thông minh, được may mắn thành công và hưởng nhiều hạnh phúc sung sướng ở đời. Phần này là kết quả của những việc làm có thể là rất tốt, rất thiện, rất đạo đức của người đó hồi kiếp trước. Tuy nhiên phần người đó đang làm trong kiếp này như khinh người, hiếp đáp kẻ khác, có những hành động độc ác, thì những việc làm xấu xa đó là nguyên nhân của một kiếp sau có thể là sẽ rất hèn hạ, khổ đau. Kiếp sau có thể người đó sẽ phải sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại có thể không đủ khôn ngoan, không có cơ hội học hành, phải sống cuộc đời nghèo khổ bị nhiều người khinh bỉ.
Trong thực tế ai cũng biết là khi ta đối xử tử tế, lịch sự, tốt đẹp đối với những người chung quanh ta thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được nhiều người đối xử tử tế, lịch sự và tốt đẹp lại. Ngược lại nếu ta có những hành vi không ra gì đối với những người chung quanh ta thì khó mà mong rằng người ta thương mến, đối xử tốt với mình. Thực tế cho thấy không ai chịu tốt bụng để cứ đối xử tốt đẹp mãi với một người đã có lối xử sự không ra gì đối với mình. “Bánh sáp đi, bánh quy lại” cũng như “ăn miếng thì trả miếng” có chung ý
nghãi về nhân quả.
Theo quan điểm của Đạo Phật, tích đức hành thiện sẽ thay đổi nghiệp quả ác từ đời trước, tạo nên những nghiệp thiện và nếu làm nhiều có thể báo ứng ngay hiện tại góp phần cải thiện vận mệnh. Các việc thiện có rất nhiều như giúp người khó khăn, chữa bệnh, làm đường xá cầu cống, ủng hộ thiên tai, hiến máu nhân đạo.Thực tế cho thấy hạnh phúc lớn lao của con người chỉ đạt được khi mà hạnh phúc ấy được chia sẽ với những thành viên khác trong cộng đồng. Tích đức hành thiện sẽ cải số được 8% số mệnh cuộc đời.
Chuyện kể rằng tại một ngôi chùa nọ có một chú Sa di được sư phụ cho phép trở về thăm cha mẹ, vì Sư có thần thông nên được biết trong vòng một tháng nữa là thọ mạng của chú Sa di sẽ chấm dứt. Trên đường đi về quê, chú Sa di thấy một ổ kiến lớn đang sắp sửa bị trôi theo dòng nước lũ, chú vội vàng tìm cách cứu để ổ kiến khỏi bị chết. Chú về thăm nhà và sau đó trở lại chùa. Nhiều tháng trời trôi qua, chú vẫn tiếp tục tu hành niệm Phật ăn chay bên sư phụ. Sư phụ của chú rất thắc mắc, một hôm hỏi chú chuyện gì đã xảy ra khi chú về thăm cha mẹ. Chú kể rõ tự sự chuyến về thăm quê, kể cả chuyện chú cứu vớt một ổ kiến to. Sư phụ mới hiểu việc kéo dài thọ mạng chính là nhân cứu giúp chúng sinh và nhân không sát sinh. Trong kinh Phật cũng dạy nhân sát sinh có thể đưa đến địa ngục, làm loài bàng sinh, quả báo nhẹ là làm người với tuổi thọ ngắn và hay bệnh hoạn.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy muốn được quả báo giàu sang sung sướng là do nhân bố thí đời trước, được quả báo thông minh là do nhân khuyên người khác làm lành tránh ác, quả báo tướng mạo đoan trang đẹp đẽ là do nhân đời trước giúp đỡ kẻ tật nguyền. Chú Sa di trong câu chuyện trên nhân cứu mạng sống của một ổ kiến to, không giết hại chúng sinh nên mạng sống được kéo dài, không bệnh tật.
Trúc Chi t/h