Lễ Vu Lan hay còn gọi là ngày lễ báo hiếu cha mẹ là một lễ lớn của các tăng ni phật tử trong Phật giáo.
Nguồn gốc của ngày Lễ Vu Lan
Nguồn gốc của ngày Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu cứu mẹ khỏi kiếp ngạ quỷ. Từ đó, người ta lấy ngày này là ngày nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.
Truyền thuyết kể rằng, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Sau khi mẹ ông là bà Thanh Đề qua đời, ông muốn xem mẹ mình đang như thế nào nên đã dùng mắt phép nhìn khắp thế gian để tìm.
Thấy mẹ bị cực hình ở địa ngục, thân thể tiều tuỵ vì đói khát, ông đã mang cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Nhưng do đói ăn lâu ngày, khi ăn mẹ ông dùng tay che bát cơm vì sợ các cô hồn khác đến tranh cướp. Khi đưa bát cơm lên miệng thì bị hoá thành lửa đỏ.
Đức Phật dạy ông rằng chỉ còn cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong cứu được mẹ. Nên vào ngày Rằm tháng 7, nhân lúc chư tăng mãn hạ, Mục Kiền Liên đã chuẩn bị một lễ dâng cúng và cầu xin cứu mẹ mình khỏi địa ngục. Lễ gồm hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay… dâng cúng các vị chư tăng.
Mục Liên làm đúng như thế, không những cứu được mẹ, ông còn giải thoát được tất cả vong hồn bị giam cầm ở âm cung.
Từ đó, ngày lễ Vu Lan cũng được gọi là ngày Xá tội vong nhân theo tục lệ Á Đông.
Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan
Hòa thượng Thích Hải Ấn, phó trưởng Ban Văn hóa trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, nói về ý nghĩa Vu Lan.
Lễ hội Vu Lan là lễ hội lớn của người phật tử. Tuy nhiên, có thể thấy Phật giáo Việt Nam với bề dày lịch sử trên 2.000 năm, lễ hội không chỉ là truyền thống sâu đậm của người phật tử mà còn là nét văn hóa ở cả người dân Việt nói chung.
Vu Lan có ý nghĩa đầu tiên là sự báo hiếu: mọi người phật tử đều trông chờ đến ngày Vu Lan để đến chùa lễ Phật cầu nguyện cho cha mẹ nhiều đời được giải thoát khỏi những cảnh khổ do nghiệp nhân nhiều đời mang lại.
Vì vậy, đây là ý nghĩa đầu tiên của người con Phật mong báo đáp ơn đức sinh thành dưỡng dục của cha mẹ trong quá khứ, và còn cầu nguyện cho cha mẹ hiện tại được luôn sức khỏe và an lành. Đồng thời thấm sâu hơn nữa là giáo lý tỉnh thức của đạo giác ngộ để thoát khổ trong cuộc sống hiện tại.
Ý nghĩa thứ hai: truyền thống Vu Lan còn là ngày cứu khổ – giải đảo huyền (nạn bị treo ngược) cho mọi sinh linh trong cuộc sống. Vì vậy người phật tử muốn đến chùa tụng kinh Vu Lan và kinh Báo ân để cứu khổ cho cha mẹ nhiều đời và cả cho mọi người bị nạn trong cảnh khổ như treo ngược.
Tôi cũng muốn nói thêm, cái khổ như người bị treo ngược này không chỉ có trong địa ngục vô hình, mà kể những người trong thế gian cũng có thể thấy được trong vô số cảnh khổ do bị phiền não hành hạ.
Ý nghĩa thứ ba là nét truyền thống tri ân và báo ân: người phật tử quan niệm có 4 ân lớn đó là ân Cha mẹ, ân Thầy tổ, ân Quốc gia và ân Chúng sinh. Do đó, ý nghĩa thứ ba của lễ hội Vu Lan chính là lễ hội tri ân và báo ân của người con Phật, và đến ngày rằm tháng bảy mọi phật tử đều mong đến chùa tụng kinh, lễ Phật, phóng sinh, bố thí làm nhiều điều thiện lành để đền đáp bốn ân nặng của người con Phật.
Ý nghĩa thứ tư: Chính là trong cuộc sống hiện tại của chúng ta phải sống đời thuận thảo với cha mẹ, bà con, thân thuộc. Nhất là phải săn sóc cha mẹ khi ốm đau, già yếu, cả vật chất lẫn tinh thần.
Hiện nay nét văn hóa ngày hiếu hạnh đã lan tỏa khắp mọi nơi qua truyền thống cài hoa hồng vào dịp ngày Vu Lan, đó cũng là nét văn hóa đẹp chúng ta cần tiếp nối và phổ biến để đem lại cuộc sống an lành cho mọi người, cho xã hội.
Không phải tự dưng cứ đến ngày Rằm tháng Bảy Âm lịch hằng năm, Phật giáo long trọng tổ chức “đại lễ Vu Lan-Báo Hiếu” thật trang nghiêm, từ hình thức cho đến nội dung nhằm mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh và văn hoá của con người. Lễ hội này phát xuất từ sự tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn.
Vu Lan: Danh từ gọi tắt của “Vu Lan Bồn”, tiếng Phạn là “Ullambana”. Ullam: dịch là “treo ngược” (đảo huyền), ví cho sự thống khổ của người chết như bị treo ngược. Chữ “bồn” tiếng Phạn là “bana” tạm dịch là “cứu giúp”. Như vậy chúng ta có thể hiểu từ “Vu Lan Bồn” có nghĩa là giải cứu người bị tội treo ngược.
Báo hiếu: Nghĩa là sự báo đáp, đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
Theo trong kinh thì Lễ Vu Lan của Phật giáo phát xuất từ thời Đức Phật. Ngài đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận chính là Tôn giả Mục Kiền Liên, Ngài là một trong 10 vị đệ tử xuất chúng của Đức Thế Tôn.
Nghi thức Bông hồng cài áo trong ngày lễ Vu Lan
Một nét đẹp trong ngày Vu Lan sau này là trong buổi lễ, có kèm theo chương trình “bông hồng cài áo”. Theo GS.TS. Ngô Đức Thịnh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, xuất phát từ áng văn viết về mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được viết vào những năm 1960.
Trong một chuyến công tác tại Nhật Bản, Thiền sư rất lạ khi thấy người
Nhật thành kính gài tặng ông một bông hoa trắng lên ngực áo. Sau khi tìm hiểu và biết được ý nghĩa cao đẹp của việc này, ông đã chọn bông hoa hồng làm biểu tượng cho lễ Vu Lan báo hiếu của nhà Phật và viết ấn phẩm “Bông Hồng Cài Áo” vào năm 1962.
Bông hoa hồng được chọn là biểu tượng của tình yêu, sự cao quý và ngát hương. Việc nhớ về bậc sinh thành và cài lên ngực bông hoa cao quý là tình cảm đẹp nhất, là chữ hiếu mà con cái gửi đến bậc sinh thành.
Với ý nghĩa đó, nhiều người Việt mình đến ngày Vu Lan đều cài một bông hoa màu đỏ lên áo, đó là biểu tượng của việc còn cha mẹ. Những người đã mất mẹ thì cài hoa màu trắng.
Trúc Chi t/h