Tết Nguyên đán thường xuyên xảy ra tình trạng tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền. Tuy nhiên, mức độ nào thì bị xử phạt hành chính, mức độ nào bị xử lý hình sự?
Tết Nguyên đán, hoạt động tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền diễn biến phức tạp hơn. Nhiều người cho rằng đây là hành vi chơi vui, tuy nhiên, nó lại là hành vi vi phạm pháp luật. Tùy vào mức độ mà có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự đối với hành vi này:
Hành vi tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền
Hành vi tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền là hành vi tổ chức đánh bạc, bị pháp luật nghiêm cấm. Người nào tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền tùy mức độ vi phạm mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc bị xử phạt hành chính, cụ thể:
Xử lý đối tượng tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền:
Xử phạt hành chính
Trường hợp hành vi tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền chưa đủ cấu thành tội phạm thì người thực hiện hành vi tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 4 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP với mức phạt tiền là từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 và Khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:
– Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5 triệu đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5 triệu đồng trở lên;
– Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5 triệu đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5 triệu đồng trở lên;
– Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20 triệu đồng trở lên;
– Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Theo đó, tùy mức độ phạm tội mà người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 10 năm; ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Đối với người tham gia đá gà, đánh bài ăn tiền
Tùy mức độ vi phạm mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc hoặc bị xử phạt hành chính đối với người tham gia đá gà, đánh bài ăn tiền, cụ thể như sau:
Xử phạt hành chính
Trường hợp hành vi đá gà, đánh bài ăn tiền chưa đủ cấu thành tội phạm thì người thực hiện hành vi tổ chức đá gà, đánh bài ăn tiền sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP với mức phạt tiền là từ 1 triệu đồng đến 2 triệu đồng.
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 và Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật hình sự 2015 hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc.
Tùy mức độ phạm tội, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm; ngoài ra, người phạm phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.